Thơ: Uông Thái Biểu

|

Nếu vùng “địa linh” núi Hồng, sông Lam, nơi Uông Thái Biểu sinh thành đã cho anh một hồn thơ thì có lẽ anh phải cảm ơn nghề báo đã mang tới anh cơ hội được sống và khám phá nhiều địa chỉ văn hóa đất nước. Giao cảm của người thơ với những vùng văn hóa ấy làm nên sự rung động giữa cái tôi trữ tình cá nhân với cái ta trữ tình công dân, để rồi bật ra những bài thơ mang cảm hứng về lịch sử, đất nước, dân tộc với độ khái quát khá cao.

Thơ Uông Thái Biểu sử dụng nhiều phương ngữ và ngôn ngữ dân gian nhưng được viết bằng thi pháp hiện đại, nên xưa mà không cũ, gân guốc mà mềm mại, quyết liệt mà bao dung, trong đó số phận mỗi con người luôn gắn với số phận văn hóa của từng dân tộc qua những thăng trầm lịch sử.

Nhà thơ Uông Thái Biểu hiện là Trưởng Cơ quan thường trực Báo Nhân Dân tại khu vực miền trung và Tây Nguyên.

Nhà thơ Hữu Việt chọn và giới thiệu

VỀ ĐỒNG

Người đi về đâu về đâu...

Ta nay về đồng

Về đồng khỏa chân dập duềnh bến sông

Về đồng bạn với rêu rong

Về đồng nhen lửa thổi cơm. Hoàng hôn

Vui vầy cây lá...

Người đi về đâu về đâu người ơi?

Chín xứ mười phương biệt chim tăm cá

Ta nay về đồng

Về đồng lội ao vớt bèo

Về đồng gội tóc chiêm bao

Thịt da thoảng thơm mùi hương rơm rạ...

Người ơi người đi về đâu?

Ta nay về đồng

Đồng ta ngọn gió thênh thang

Câu hò ai ngân giọng buồn mênh mang

Ngọn cau giêng hai úa lá trăng vàng

Vàng trăng muôn thuở...

Thời gian chớp mắt đi đâu đi lâu không về người ơi!

Ta nay về đồng

Về đồng làm trẻ chăn trâu chân không bên sông

Sáo diều vi vu cỏ lau se sắt

Nghe mèo đi hoang

Nghe gà gọi canh...

Người đi cứ đi

Ta nay về đồng

Rửa tai thị phi phủi bụi thị thành

Gác chân bờ đê úp nón ngủ khoèo

Tỉnh giấc chiêm bao công hầu tướng khanh...

DÁNG CHĂM

Em mải miết ngóng ai trên triền cát

Ngửa mặt biển khơi mặn mòi

Thấp thoáng bóng buồm nâu thuyền trôi người đi

Biển ngàn năm vẫy gọi

Em đợi, em chờ ai...

Vũ nữ Chăm xưa ẩn mình vách tháp

Những bước chân Apsara huyễn hoặc

Những ngón tay nâng búp tháp phiêu linh

Dáng lửa thắp trời xanh...

Không tạo hình gốm đất Bàu Trúc sông Quao

Không phối sắc màu rừng thổ cẩm Mỹ Nghiệp

Không kiêu hãnh đền tháp Po Kluang Garai

Em đứng đó trên triền cát một mình

Da thịt tóc tai

Ẩn chìm tâm trạng

Chảy hòa vào dòng cát phôi pha trùng trùng vô tận

Chảy vào mắt môi em

Chảy vào nỗi buồn em

Chảy vào hình hài Chiêm quốc xa xăm

Những vân cát như những vân máu trên cánh tay vũ nữ

Thuở đế chế huy hoàng và lụi tàn...

Bên biển khơi

Chỉ còn em với triền cát đời mình cuộn chảy

Chỉ còn cát cùng em với hoài niệm ngày qua sông bắt chồng

Em, nàng Chăm

Giữa mênh mang sóng cát

Ngóng phía trùng dương như ngóng về ký ức...

VIẾT Ở KỲ CÙNG

Tôi đi tìm em tôi tìm thấy Kỳ Cùng

Tô Thị ngóng xuôi bên dòng sông chảy ngược

Thổi về một phương không thể nào khác được

Ngọn gió Mẫu Sơn lùa mây trắng Sìn Hồ...

Lạng Sơn ơi!

Sao từ bấy đến giờ

Người giấu tôi chuyện ngàn năm dâu bể

Có thể có và không, có thể

Tôi đã mất em từ phiên chợ Kỳ Lừa...

Mây trắng vẫn trôi vô định với Sìn Hồ

Em đừng sli những cung âm thao thiết

Tôi làm sứ quan ngước trông về cố quốc

Nước mắt đầm cương biên tái lịm trong chiều.

Còn ai chờ tôi bên thành cổ đìu hiu

Lắng tiếng gươm khua tiếng quân reo thuở trước

Người giữ đất nhớ người đi mở nước

Hương hoa hồi thoảng mãi với hư không...

Tôi đi tìm tôi, tôi tìm thấy Kỳ Cùng

Mai người về xuôi còn sông thì chảy ngược

Ngọn gió ấy không thể nào khác được

Thổi miệt mài cùng mây trắng Mẫu Sơn...

Minh họa trang thơ: NGUYỄN THỊ HIỀN