Việt Nam khai thác tốt tiềm năng kinh tế số

|

Việt Nam khai thác tốt tiềm năng kinh tế số

Kinh tế số đang tạo ra những cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng nhằm bứt tốc phát triển kinh tế, là động lực quan trọng để đưa nước ta sớm trở thành quốc gia có công nghệ hiện đại và sáng tạo, từ đó rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu vào năm 2025, kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030.

Việt Nam khai thác tốt tiềm năng kinh tế số

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế số nhờ đó kinh tế số đã có những bước phát triển ấn tượng. Theo đó, năm 2020, với nhiều chiến lược chính sách chuyển đổi số quốc gia, đánh dấu năm khởi động nhận thức về chuyển đổi số. Năm 2021 là năm bắt đầu triển khai, trải nghiệm về chuyển đổi số trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Năm 2022 thực hiện tăng tốc chuyển đổi số quốc gia và là năm đầu tiên thực hiện Ngày Chuyển đổi số quốc gia, khi Việt Nam lấy ngày 10/10 hàng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Năm 2023 theo Bộ Thông tin và Truyền thông là năm tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới, trong đó tập trung vào số hóa, làm giàu và kết nối dữ liệu; tăng cường bảo vệ dữ liệu; đẩy mạnh triển khai các dịch vụ công, tiện ích phục vụ người dân, doanh nghiệp.

 

Tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về chuyển đổi số quốc gia, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã thể hiện quyết tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế số nhằm tạo lập hành lang pháp lý giúp kiến tạo, phát triển trên không gian mới (không gian số), giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn chuyển đổi số thời gian vừa qua, giải quyết các "điểm nghẽn" nhằm thúc đẩy chuyển đổi số nhanh tại Việt Nam. Theo đó, Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), cùng 1 Nghị định, 2 Chỉ thị, 1 Công điện, 7 Nghị quyết, 11 Thông báo kết luận của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ đã được ban hành.

Trong quá trình triển khai thực hiện kinh tế số, một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả của kinh tế số là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT). Trong giai đoạn 2020 - 2022, dịch bệnh Covid - 19 diễn ra phức tạp làm ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của người dân, tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, song đây lại là cơ hội để kinh tế số Việt Nam phát triển. Hoạt động TMĐT trở thành kênh kết nối cung cầu hàng hóa, dịch vụ hữu hiệu trong nền kinh tế, đưa hoạt động mua bán trực tuyến trở nên phổ biến. Trong 3 năm (từ năm 2020 - 2022), số lượng người tiêu dùng mua sắm trực tuyến tăng nhanh. Nếu như năm 2020, số lượng người tiêu dùng mua sắm trực tuyến là 49,3 triệu người; năm 2021, con số này tăng lên 54,6 triệu người và năm 2022 khoảng 57 - 60 triệu người. Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2022 ghi nhận, tỷ lệ người dùng Internet tham gia mua sắm trực tuyến chiếm đến 74,8% số người dùng Internet, với các mặt hàng chủ yếu là quần áo, giày dép, mỹ phẩm (chiếm 69%), tiếp đến là thiết bị đồ dùng gia đình (chiếm 64%); đứng thứ 3 là đồ công nghệ và điện tử (chiếm 51%)… Theo Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương), năm 2023, ước tính tổng doanh thu TMĐT tại thị trường Việt Nam sẽ cán mốc 20,5 tỷ USD, tăng trưởng 25%. Báo cáo Kinh tế số Đông Nam Á của Google dự báo, thị trường TMĐT Việt Nam tiếp tục bùng nổ trong những năm tới và sẽ cán mốc 39 tỷ USD vào năm 2025.

Về cơ sở dữ liệu, đến tháng 6/2023, Đề án phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022- 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06 của Bộ Công an) đã kết nối chính thức với 13 Bộ, ngành, 4 doanh nghiệp và 63/63 địa phương để phục vụ khai thác thông tin dân cư. Có 96 bộ, ngành, địa phương (gồm: 33 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố) hoàn thành kết nối và đồng bộ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức. Tổng số dữ liệu được đồng bộ tự động về cơ sở dữ liệu quốc gia là 2.087.114 hồ sơ, trong đó Bộ, ngành là 132.626/253.837 hồ sơ, đạt 50,25%, địa phương là 1.974.488/2.030.095 hồ sơ, đạt 96,28%.

Hạ tầng số đã được quan tâm phát triển và xác định đi trước một bước. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2022, hệ thống 5G đã triển khai thử nghiệm ở hơn 40 tỉnh/thành phố trong cả nước; hệ thống cáp quang được xây dựng tới 100% các xã, phường, thị trấn, 91% thôn bản, 100% trường học. Mạng truyền số liệu chuyên dụng được kết nối tới 100% cấp xã. Tỷ lệ người dân sử dụng Internet có xu hướng tăng lên từ 58,1% năm 2017 đến 75% năm 2022. Hoạt động an toàn thông tin mạng ngày càng được quan tâm triển khai thực hiện, đảm bảo tốt cho các hoạt động kinh tế số. Theo Tổng cục Thống kê, tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 9/2023 ước đạt gần 128,2 triệu thuê bao. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Chín ước đạt gần 22,2 triệu thuê bao, tăng 6,2% so với cùng thời điểm năm trước.

Về dịch vụ công trực tuyến: Trên cổng dịch vụ công quốc gia, tính đến ngày 25/9/2023, số thủ tục hành chính đã cung cấp dịch vụ công trực tuyến là 4.556 thủ tục; 2.644 dịch vụ công cho công dân; 2.418 dịch vụ công cho doanh nghiệp; số hồ sơ đồng bộ trạng thái xử lý lên cổng Dịch vụ công quốc gia là khoảng 244,9 triệu hồ sơ; số hồ sơ trực tuyến thực hiện qua cổng Dịch vụ công quốc gia là hơn 25,1 triệu hồ sơ.

Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, có 3 bộ có số lượng dịch vụ công trực tuyến cao nhất gồm: Bộ Tài chính có 207 dịch vụ, Bộ Công an có 202 dịch vụ và Bộ Giao thông vận tải có 203 dịch vụ. Trong các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh Thanh Hóa và Long An có số dịch vụ công trực tuyến cao nhất toàn quốc với số dịch vụ công ương ứng là 1.716 dịch vụ và 1.569 dịch vụ.

Tỷ lệ đóng góp của kinh tế số vào tăng trưởng kinh tế (GDP) có xu hướng tăng. Kết quả tính thử nghiệm sơ bộ từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP năm 2022 là 12,86%, trong đó ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,82% (chiếm 60,85%), số hóa các ngành khác đóng góp 5,03% (chiếm 39,15%), bình quân giai đoạn 2019-2022 đạt khoảng 11,53%. Theo khu vực kinh tế, đóng góp kinh tế số của khu vực dịch vụ trong GDP cao nhất, bình quân giai đoạn 2019-2022 đạt 6,60%; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 5,97%; số hóa trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản có tỷ trọng thấp nhất trong 3 khu vực, bình quân giai đoạn 2019-2022 chỉ đóng góp khoảng 0,05% trong GDP. Giai đoạn 2019-2022, quy mô của kinh tế số có xu hướng gia tăng, thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, hoạt động số hóa của các ngành kinh tế ngày càng được đẩy mạnh, đặc biệt là các ngành dịch vụ có xu hướng số hóa ngày càng tăng, giúp tỷ trọng đóng góp giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ trong GDP từ 6,49% năm 2019 lên 6,74% năm 2022.

Một số ngành công nghiệp tại Việt Nam đang được số hóa nhanh chóng như: TMĐT, du lịch, nội dung số và fintech. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam luôn nỗ lực đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất kinh doanh, từng bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào kinh tế số với việc sử dụng nền tảng số SMEDx cũng đã có sự thay đổi lớn, tăng từ 16.000 doanh nghiệp năm 2021 lên 77.000 doanh nghiệp năm 2022. Việt Nam cũng đã có một số doanh nghiệp rất thành công trong các ngành công nghệ thông tin, phần mềm, ứng dụng công nghệ số như: FPT, Viettel...

Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2022 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2022 Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua (tăng 20 bậc), xếp vị trí 48/132 quốc gia, giảm 4 bậc so với năm 2021 (năm 2021 xếp thứ 44/132 quốc gia) và xếp vị trí thứ 3 khu vực Đông Nam Á, sau Xin-ga-po (thứ 7) và Thái Lan (thứ 43). Ngoài ra, Việt Nam dẫn đầu thế giới về nhập khẩu công nghệ cao; đồng thời có sự cải thiện vị trí xếp hạng về đầu ra thứ hạng 35 (năm 2021 là 38). Đặc biệt, Việt Nam cùng với I-ran (hạng 53) và Phi-li-pin (hạng 59) là 3 nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất.

Có thể thấy với nền kinh tế số đang ngày càng phát triển đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các ngành nghề kinh doanh ở Việt Nam hoạt động ngày càng sôi động hơn, từ TMĐT, quảng cáo trực tuyến trên các trang mạng xã hội (Facebook, instagram), giải trí (Netflix, Pinterest), giao thông vận tải (Uber, Grab, GoViet) đến phân phối, bán buôn và bán lẻ (Lazada, Shopee),... Ngoài ra, phát triển kinh tế số hứa hẹn sẽ là yếu tố đem lại nhiều cơ hội trong thực hiện quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại trong thời gian tới.

Cơ hội và giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới

Thực tế cho thấy, phát triển nền kinh tế số Việt Nam đang có triển vọng rất tích cực. Việt Nam với dân số hơn 100 triệu người được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN.

Chính phủ Việt Nam đã thể hiện rõ quyết tâm, định hướng và nỗ lực hành động mạnh mẽ trong thúc đẩy phát triển kinh tế số, trong đó chú trọng xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, hình thành cổng thông tin điện tử quốc gia, cải cách nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt, ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI) và thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%. Đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI) và thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); kinh tế số chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế số vẫn còn một số tồn tại liên quan đến thể chế, hạ tầng số, nguồn nhân lực; chuyển đổi số ở một số cấp, ngành, địa phương và các doanh nghiệp còn hạn chế; các nền tảng số Make in Vietnam còn non trẻ; những thách thức về bảo mật thông tin, hạ tầng công nghệ…

Do đó, để thúc đẩy nền kinh tế số phát triển, Việt Nam cần chú trọng một số giải pháp trong thời gian tới như:

Về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế số

- Chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện các bước đi cần thiết để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế số như: Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế số, xã hội số.

- Thúc đẩy các hoạt động thu hút đầu tư vốn trong hoạt động nghiên cứu phát triển R&D trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ số.

- Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các tiêu chí phù hợp với thực tế ở Việt Nam và cách đo lường trên thế giới nhằm thống nhất cách đánh giá kết quả hoạt động của kinh tế số, tạo thuận lợi cho sự so sánh giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.

- Cần tiếp tục có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc phát triển công nghệ số tại chính đơn vị của doanh nghiệp.

- Việt Nam cần có các biện pháp tăng cường đối thoại các quốc gia đối tác để hài hòa chính sách, tạo ra một môi trường số chung thống nhất, an toàn và đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh tế số trong tương lai

Về phát triển hạ tầng số

- Đảm bảo doanh nghiệp, người dân tiếp cận với internet tốc độ cao, thúc đẩy các doanh nghiệp phổ cập điện toán đám mây.

- Thúc đẩy các dự án đầu tư phát triển hạ tầng số. Hướng tới phát triển hạ tầng số đồng bộ, đảm bảo kết nối thông tin, lưu trữ và xử lý dữ liệu cũng như đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong môi trường số.

- Thúc đẩy phát triển hạ tầng phục vụ cho hoạt động TMĐT, đặc biệt là hệ thống thanh toán điện tử.

Về thúc đẩy đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số

- Tăng cường phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với các yêu cầu đặt ra của nền kinh tế số. Xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo, đào tạo lại kỹ năng số cho lực lượng lao động công nghệ cũng như đào tạo kỹ năng số cơ bản cho người dân nhằm thích ứng với xu thế chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

 - Thúc đẩy hỗ trợ các hình thức hợp tác đào tạo giữa các nhà trường, viện nghiên cứu và tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước trong đào tạo nhân lực chuyển đổi số.

- Xây dựng mạng lưới, kết nối các chuyên gia, nhà khoa học nhằm thúc đẩy gắn kết nghiên cứu, chia sẻ tri thức về hoạt động chuyển đổi số.

Về đẩy mạnh tuyên truyền phát triển kinh tế số

- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển kinh tế số giúp doanh nghiệp nhận thức vai trò quan trọng của hoạt động chuyển đổi số hướng tới tăng năng suất và hiệu quả kinh doanh. Từ đó giúp doanh nghiệp thay đổi tư duy và nhận thức trong đổi mới, sáng tạo, áp dụng mô hình kinh doanh số.

- Doanh nghiệp, người tiêu dùng cần tích cực tham gia vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, chia sẻ thông tin, hoạt động đào tạo về chuyển đổi số.

- Thường xuyên tổ chức hội thảo để chia sẻ cập nhật sản phẩm, công nghệ có liên quan mới nhất của xã hội, các xu thế phát triển trong giai đoạn mới, qua đó góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn của kinh tế số tại Việt Nam.

Đảm bảo an toàn trong phát triển kinh tế số

- Cần tiếp tục triển khai các giải pháp giám sát mạng, để đảm bảo an toàn cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ điện tử.

- Gia tăng bảo mật thông tin, dữ liệu của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trên các nền tảng IoT và đẩy mạnh việc thiết lập hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin mạng../.

ThS. Phạm Linh Giang - ThS. Nguyễn Thị Nga

Đại học Lao động - Xã hội