Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 đạt khá trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm

|

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 đạt khá trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm

LTS. 6 tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt 3,72%, là con số khá tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để làm rõ về điểm sáng, đánh giá thuận lợi, khó khăn cũng như động lực tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023; và tìm giải pháp tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng cuối năm của Việt Nam, Tạp chí Con số và Sự kiện đã có cuộc trao đổi với Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê NGUYỄN THỊ HƯƠNG về các nội dung trên

Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương

Phóng viên:Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2023 đạt 3,72%, được cho là con số khá tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn. Vậy Tổng cục trưởng có thể cho biết đâu là những điểm sáng động lực trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình kinh tế thế giới diễn ra trong bối cảnh có nhiều biến động nhanh, khó lường, đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế-xã hội của nước ta. Trong 6 tháng đầu năm 2023, nền kinh tế có nhiều điểm sáng, tối đan xen, tuy nhiên có dấu hiệu tích cực khi hoạt động sản xuất kinh doanh trong tháng Năm và tháng Sáu đang dần cải thiện, xu hướng tăng trưởng và ổn định được phần lớn các doanh nghiệp đánh giá, nhận định. Tăng trưởng kinh tế trong quý II/2023 đạt 4,14%, cao hơn 0,86 điểm phần trăm so với mức tăng 3,28% của quý I; trong đó khu vực công nghiệp đã có chuyển biến tích cực với mức tăng trưởng 1,56% (quý I giảm 0,75%); ngành xây dựng tăng cao (7,05%), cao hơn mức tăng 4,94% của cùng kỳ năm trước; điểm sáng nhất vẫn là khu vực dịch vụ với mức tăng 6,11%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng ổn định 3,25% so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung 6 tháng đầu năm, tăng trưởng kinh tế đạt 3,72%; trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy tăng 3,07% và khu vực dịch vụ tăng 6,33% vẫn là nhân tố chủ lực đóng góp vào tốc độ tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế, với mức đóng góp lần lượt 0,36 điểm phần trăm và 3,04 điểm phần trăm. Khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn còn nhiều khó khăn nhưng đã tạm thời chấm dứt đà tăng trưởng âm từ quý I, đạt 1,13% (trong đó: Công nghiệp tăng 0,44%, xây dựng tăng 4,74%); đây là những tín hiệu lạc quan hơn cho triển vọng kinh tế 6 tháng cuối năm.

Động lực tăng trưởng chính trong quý II và 6 tháng đầu năm tập trung chủ yếu vào khu vực dịch vụ, đây là khu vực có mức tăng cao nhất trong cả 3 khu vực kinh tế, trong đó quý II tăng 6,11%; 6 tháng đầu năm tăng 6,33%, đóng góp lần lượt 2,93 điểm phần trăm và 3,04 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Với sự gia tăng của lượng khách du lịch trong nước và quốc tế, hoạt động du lịch đang là điểm sáng trong bức tranh tăng trưởng, du lịch phát triển kéo theo sự tăng trưởng mạnh trong các nhóm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, vận tải kho bãi, bán buôn bán lẻ và nghệ thuật vui chơi giải trí. Tăng trưởng của các ngành này trong quý II và 6 tháng đầu năm lần lượt là: Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,71% và 15,14%; vận tải kho bãi tăng 7,66% và 7,18%; bán buôn và bán lẻ tăng 8,98% và 8,49%; nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 11,41% và 12,05%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò là “bệ đỡ” của nền kinh tế, thực hiện đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu chuyển từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”, vừa đảm bảo nguồn cung và an ninh lương thực, vừa gặt hái được nhiều kết quả tích cực tạo nên tăng trưởng ổn định trong những quý vừa qua. Tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng đầu năm đạt 3,07% (trong đó nông nghiệp tăng 3,14%; lâm nghiệp tăng 3,43% và thủy sản tăng 2,77%).

Có được kết quả này là nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng và Chính phủ cùng với sự đồng lòng quyết tâm vượt qua khó khăn của khối Doanh nghiệp, tổ chức, hiệp hội và người dân cả nước. Ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, giảm lãi suất đảm bảo phương tiện thanh toán và huy động vốn ổn định, tính tới thời điểm 20/6, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,53% so với cuối năm 2022 (cùng thời điểm năm trước tăng 3,30%), huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 3,26% (cùng thời điểm năm trước tăng 3,97%). Việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công cũng là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, mức tăng vốn đầu tư thực hiện của khu vực Nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 đạt 12,6% cho thấy sự quyết tâm nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương trong việc quyết liệt đẩy mạnh thực hiện nguồn vốn đầu tư công ngay từ các tháng đầu năm. Năm 2023 là điểm rơi của đầu tư công trung hạn và giải ngân thực hiện gói đầu tư cơ sở hạ tầng thuộc chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, đây là nguồn vốn mồi thúc đẩy đầu tư tư nhân, thúc đẩy sản xuất, kích cầu nền kinh tế. Mặc dù việc giải ngân vốn đầu tư công chưa có cải thiện đáng kể nhưng chắc chắn sẽ là một động lực tăng trưởng lớn trong các quý tiếp theo.

Phóng viên: Tình hình kinh tế - chính trị thế giới vẫn đang diễn biến khá phức tạp, trong nước chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gì, thưa Tổng cục trưởng?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: GDP 6 tháng đầu năm chỉ đạt 3,72%, không đạt như kỳ vọng, điều này cho thấy nước ta đang phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức cả từ các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài.

Các yếu tố tác động từ bên ngoài có thể kể đến như: Bối cảnh thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược nước lớn gay gắt hơn, kéo theo sự tham gia của nhiều quốc gia, khu vực; Lạm phát tăng cao tại một số thị trường nhập khẩu lớn dẫn đến nhu cầu tiêu dùng thắt chặt hơn đã ảnh hưởng đến cơ hội xuất khẩu và khai thác thị trường của các doanh nghiệp trong nước; Chính sách tiền tệ thắt chặt tác động mạnh đến các doanh nghiệp, các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu. Kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế tháng 6/2023, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022 từ 0,5 đến 1 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, rủi ro hệ thống ngân hàng, nợ công, nợ của doanh nghiệp tiếp tục gia tăng; Kinh tế Trung Quốc đang phục hồi chậm và còn nhiều bất định.

Ở trong nước: Động lực sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và du lịch chưa phục hồi hoàn toàn, bị tác động bởi khó khăn, thách thức từ bên ngoài. Đơn hàng xuất khẩu giảm sút do nhu cầu tại Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro yếu đi; Giải ngân vốn đầu tư công - một động lực tăng trưởng vô cùng quan trọng trong bối cảnh hiện nay dù đã đạt những kết quả đáng khích lệ song tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp; Một số thị trường then chốt, như: Tiền tệ, chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản và lao động... đang bộc lộ rủi ro, thanh khoản eo hẹp hơn. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, nhiên liệu như xăng, dầu, điện liên tục tăng giá;  doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn, ngân hàng tăng lãi suất cho vay... đang là thách thức đặt ra.

Phóng viên: Kinh tế Việt Nam đã đi được một nửa chặng đường của năm 2023, theo Tổng cục trưởng, trước những khó khăn, thách thức đó, liệu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 có đạt mục tiêu 6,5%? Và đâu là động lực cho tăng trưởng 6 tháng cuối năm?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Theo kịch bản tăng trưởng đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ/CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ, để đạt mục tiêu cả năm tăng trưởng 6,5% thì 6 tháng đầu năm cần phải đạt được mức tăng 6,2% (trong đó quý I tăng 5,6%, quý II tăng 6,7%). Tuy nhiên, kinh tế cả nước 6 tháng chỉ ước đạt 3,72% (trong đó quý I tăng 3,28%, quý II tăng 4,14%), không đạt mức tăng đề ra, thậm chí thấp hơn nhiều so với kế hoạch (thấp hơn 2,48 điểm phần trăm), chủ yếu do các ngành công nghiệp với tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 0,44%, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo chỉ đạt tốc độ khiêm tốn; xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo như linh kiện điện tử, dệt may, da giày… sụt giảm, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng cùng kỳ năm 2022 do thiếu hụt đơn hàng nước ngoài...

Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục cập nhật kịch bản tăng trưởng kinh tế cho các quý tiếp theo. Tuy nhiên, để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5% là khó khả thi trong bối cảnh nhu cầu thị trường chưa tăng, đơn hàng nước ngoài chưa có nhiều chuyển biến rõ nét do thế giới vẫn tồn tại nhiều yếu tố, rủi ro tiềm ẩn, khó dự báo nên cầu tiêu dùng thế giới vẫn yếu và khó dự báo. Tuy nhiên, tôi tin rằng với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế theo mục tiêu đã đề ra, kinh tế Việt Nam có thể đạt được mức tăng trưởng phù hợp với một số động lực chính như:

Một là, đầu tư công đang được ráo riết đẩy mạnh nhằm giải phóng nguồn lực, tạo cơ hội cho sản xuất phát triển. Nhiều ngành sẽ có cơ hội hưởng lợi trực tiếp như xây dựng, giao thông vận tải, ngành sản xuất vật liệu xây dựng...

Hai là, hoạt động du lịch tăng trưởng sẽ tạo cơ hội cho nhiều ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tại chỗ.

Ba là, hoạt động Nông nghiệp và thủy sản vẫn tiếp tục ổn định; nhiều sản phẩm nông sản đang vào mùa có khả năng xuất khẩu cao. Xuất khẩu hàng Nông, thủy sản tăng trưởng tốt (6 tháng đầu năm đạt gần 14 tỷ USD, chiếm gần 1/3 kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế cả nước).

Bốn là, kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dự báo tình hình trong quý III sẽ khả quan hơn quý II. Hy vọng, sự phục hồi của khu vực doanh nghiệp sẽ là động lực cho tăng trưởng của các tháng cuối năm.

Năm là, tăng lương cơ sở mới kể từ tháng Bảy sẽ là nhân tố để kích thích nhu cầu tiêu dùng do tăng thu nhập, nâng cao mức độ thụ hưởng của người lao động. Đồng thời lạm phát được kiểm soát hiệu quả cũng là yếu tố hỗ trợ tăng trưởng.

Sáu là, chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt sẽ tiếp tục hỗ trợ giảm thuế, phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất - kinh doanh và kích cầu tiêu dùng.

Phóng viên: Vậy giải pháp thúc đẩy tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm là gì, xin Tổng cục trưởng đưa ra một vài khuyến nghị?

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Bên cạnh những kết quả đạt được, những tháng cuối năm 2023, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; các biến động về kinh tế, chính trị của thế giới, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, thiên tai, biến đổi khí hậu và dịch bệnh bất thường, khó dự báo. Do đó, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng trong năm 2023 là thách thức rất lớn, cần sự nỗ lực, quyết tâm rất cao, sự chung sức, đồng lòng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của doanh nghiệp và Nhân dân trên cả nước. Các ngành, các cấp cần tăng cường dự báo, chủ động điều hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn, kịp thời ứng phó trong mọi tình huống, tập trung triển khai hiệu quả, đồng bộ các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:

Một là, theo dõi sát và cập nhật kịp thời diễn biến tình hình thế giới, chính sách tài khóa, tiền tệ của các nước có quy mô kinh tế lớn, là đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, chính sách vĩ mô khác. Thực hiện hiệu quả các giải pháp về tiền tệ, lãi suất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; điều hành tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo động lực tăng trưởng. Điều hành tỷ giá phù hợp; tăng cường năng lực thích ứng, chống chịu và an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng.

Liên tục cập nhật các kịch bản dự báo về tăng trưởng, lạm phát để chủ động trong chỉ đạo, điều hành ứng phó với các tình huống phát sinh. Theo dõi chặt chẽ diễn biến giá các mặt hàng thiết yếu nhất là mặt hàng xăng dầu, năng lượng; xây dựng các phương án đảm bảo nguồn cung, hạn chế việc tăng giá đột biến, giảm thiểu tác động của lạm phát đến đời sống của Nhân dân.

Hai là, đẩy mạnh sản xuất, tiêu dùng trong nước, nhất là các mặt hàng có nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào nội địa để hạn chế nhập khẩu và chủ động nguồn cung. Thường xuyên rà soát để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Đảm bảo nguồn điện cho sản xuất, tiêu dùng trong mùa cao điểm nắng nóng. Kịp thời có giải pháp hỗ trợ một số ngành, lĩnh vực chịu tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: Da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ… Triển khai các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ, xuất khẩu nông sản, đặc biệt là các mặt hàng nông sản có thế mạnh đang vào vụ thu hoạch.

Ba là, triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, phát triển du lịch; thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường truyền thống, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản; mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu; khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; điều chỉnh kịp thời chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài có chất lượng cao; đánh giá tác động để có phản ứng phù hợp với chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu trong đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Các Bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp lĩnh vực dịch vụ, du lịch; khai thác hiệu quả thị trường khách du lịch Trung Quốc; đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch, thúc đẩy du lịch phục hồi, phát triển bền vững.

Bốn là, tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tích cực đẩy nhanh tiến độ các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia, có tính liên vùng, liên quốc gia và hạ tầng đô thị lớn; xử lý kịp thời, hiệu quả các khó khăn, vướng mắc về pháp lý, tập trung xử lý ngay những điểm nghẽn, nút thắt chính trong hoạt động đầu tư công như công tác chuẩn bị dự án, giải phóng mặt bằng.

Có thể nói, kỳ vọng GDP 6 tháng cuối năm tăng trưởng để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng cả năm sẽ là một thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các nền kinh tế lớn có nhiều biến động khó dự đoán được. Tuy nhiên, với các giải pháp đã được đưa ra cùng sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và nhân dân, hy vọng nước ta sẽ đạt được mức tăng trưởng cao hơn trong 6 tháng cuối năm.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Tổng cục trưởng!