Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Chủ động kiến tạo, phát triển nhanh và bền vững

|

Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Chủ động kiến tạo, phát triển nhanh và bền vững

Tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ (lần thứ 2) ngày 11/10/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch vùng hướng đến việc chủ động kiến tạo phát triển, tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh để tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững. 

Quy hoạch vùng hướng đến việc chủ động kiến tạo phát triển

Thay mặt cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì lập Quy hoạch vùng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là bước cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia, thể hiện những định hướng lớn và cơ bản của các quy hoạch ngành quốc gia về tổ chức không gian phát triển; giúp “mở đường”, tạo ra các động lực phát triển, tiềm năng phát triển, không gian phát triển mới của quốc gia, của vùng và thể hiện cụ thể trên phạm vi không gian của từng địa phương.

Xác định rõ vị trí vai trò của quy hoạch, ngay từ những ngày đầu tổ chức lập Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các địa phương trong vùng để triển khai lập quy hoạch vùng.

Quy hoạch vùng hướng đến việc chủ động kiến tạo phát triển; tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; để tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững. Quy hoạch vùng sẽ là cơ sở để các địa phương trong vùng liên kết, hợp tác; bao gồm việc đề xuất kế hoạch đầu từ công trung hạn giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các dự án lớn, có tính liên vùng.

 
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị

Quy hoạch vùng được xây dựng nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học, trên cơ sở cụ thể hóa Nghị uyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia và các Quy hoạch ngành quốc gia đã và đang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hiện nay, đã có 86/110 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia đã được thẩm định xong, trong đó có 16 quy hoạch ngành quốc gia đã được phê duyệt.

Trong quá trình lập quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức các Hội nghị giữa đơn vị tư vấn với các chuyên gia, nhà khoa học; tổ chức các đoàn khảo sát và làm việc với một số địa phương trong vùng; làm việc với các đơn vị quản lý chuyên môn của các Bộ, ngành; gửi Hồ sơ quy hoạch vùng xin ý kiến Mặt trận Tổ quốc, các Bộ, ngành Trung ương, 14 địa phương trong vùng và 09 địa phương liền kề nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các cấp quy hoạch và đáp ứng yêu cầu quản lý của các ngành.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, Hội nghị Hội đồng điều phối Vùng là bước tiếp theo rất quan trọng, để lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương cho ý kiến trực tiếp về các nội dung chủ yếu của quy hoạch vùng, là cơ sở để đơn vị tư vấn tiếp thu, tiếp tục hoàn thiện hồ sơ trình thẩm định quy hoạch vùng.

Đưa ra 7 đề xuất có tính mới, đột phá

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn, sáng tạo, bền vững và bao trùm; các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam; tiềm năng đón khách du lịch quốc nội và quốc tế ngày càng tăng sau đại dịch Covid; cũng như cơ chế, chính sách từ Trung ương giúp thúc đẩy các nền tảng hạ tầng cho phát triển.

Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 7 nội dung về cách tiếp cận, nhận diện, đề xuất có tính mới, đột phá trong Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. 

Thứ nhất, tầm nhìn phát triển đến năm 2050, phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực Châu Á với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, bền vững, có bản sắc riêng, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; là nơi các giá trị văn hóa, lịch sử, hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đạt mức cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc.

Thứ hai, tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng trọng yếu, đặc biệt là giao thông và logistics, năng lượng, hạ tầng thông tin và chuyển đổi số, giáo dục, đào tạo, y tế, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu… Tập trung mọi nguồn lực xây dựng hạ tầng giao thông và logistics kết nối nội vùng và liên vùng, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả vận tải hàng hóa, đặc biệt là hàng hải và đường sắt kết nối Bắc - Nam, Đông - Tây, đảm nhận vai trò cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên, qua đó giảm chi phí logistics, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, tăng mật độ các hoạt động kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng.

Thứ ba, phát triển không gian kinh tế ven biển có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung phát triển một số khu vực động lực, cực tăng trưởng gắn với các trung tâm chuyên ngành về kinh tế biển lớn tầm khu vực và quốc tế, bao gồm:

Tiểu vùng Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Phát triển khu vực ven biển ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước và là khu vực động lực phát triển của Bắc Trung Bộ gắn với khu cảng biển, khu chế xuất, trung tâm logistics quốc tế tại Vũng Áng - Cửa Lò; thành phố Vinh mở rộng trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo của tiểu vùng. Tỉnh Thanh Hoá trở thành một cực tăng trưởng, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác tăng trưởng ở khu vực phía Bắc. Quảng Bình là trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng biển và du lịch di sản thiên nhiên thế giới có tầm quốc tế.

Tiểu vùng Trung Trung Bộ gồm: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Phát triển khu vực ven biển dọc đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông đến biển thuộc Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi thành vùng động lực quốc gia, trong đó Đà Nẵng là cực tăng trưởng quốc gia theo đúng định hướng của Quy hoạch tổng thể quốc gia. Phát triển vùng đô thị Đà Nẵng và các đô thị lân cận trở thành trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin; là một trong những trung tâm giáo dục, đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học, công nghệ của đất nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Phát triển Thừa Thiên Huế trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương, trung tâm văn hóa đặc sắc của khu vực và Châu Á, là trung tâm khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo và y tế chuyên sâu của quốc gia.

Tiểu vùng Nam Trung Bộ gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Phát triển Khánh Hòa trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương; trong đó cụm đô thị Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh là trung tâm tiểu vùng Nam Trung Bộ về kinh tế, công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng kết nối liên vùng, khu vực và quốc tế; trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại Khánh Hòa. Phát triển trung tâm công nghiệp năng lượng tái tạo lớn ở Ninh Thuận, Bình thuận.

Thứ tư, thu hút, kết nối và huy động mọi nguồn lực đầu tư, mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế Vùng, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tập trung phát triển các cụm liên kết ngành kinh tế biển với trọng tâm là liên kết giữa các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển. Tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn của Vùng như: Hóa dầu (ở Thanh Hóa, Quảng Ngãi); năng lượng tái tạo (ở Ninh Thuận, Bình Thuận); công nghiệp ô tô và phụ trợ (ở Quảng Nam, Đà Nẵng); luyện kim, chế biến thép (ở Hà Tĩnh); công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; chế biến gỗ và lâm sản; chế biến thủy sản… Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, công nghiệp công nghệ cao, các công nghệ chủ chốt của cách mạng công nghiệp lần thứ tư để hình thành năng lực sản xuất mới; tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất của khu vực và toàn cầu.

Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao. Phát triển các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá kết hợp với quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững gắn với nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng. Phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, đặc hữu có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết theo chuỗi giá trị và có giá trị gia tăng cao; gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch.

Thúc đẩy phát triển dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại; hình thành các trung tâm logistics gắn với cảng biển, ga đường sắt, cảng hàng không, cửa khẩu. Phát triển các trung tâm du lịch mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, chú trọng tính chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy bản sắc độc đáo và tính đa dạng của vùng. Phát triển mạnh các loại hình du lịch biển, đảo; du lịch sinh thái, thám hiểm địa chất hang động; du lịch tìm hiểu, khám phá di sản văn hóa, lịch sử gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của Vùng.

Thứ năm, tăng cường hợp tác và liên kết liên tỉnh cho phát triển kinh tế - xã hội, như: Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An; Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh; Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình; Nam Phú Yên - Bắc Khánh Hòa. Thúc đẩy các hoạt động liên kết phát triển vùng để quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn.

Thứ sáu, phát triển hệ thống đô thị, đặc biệt là dải đô thị ven biển, gắn kết chặt chẽ với phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp để hỗ trợ hiệu quả cho việc phát triển các trung tâm kinh tế biển theo hướng nâng cao mật độ các hoạt động kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và hội nhập quốc tế của các đô thị, có bản sắc đặc trưng của đô thị sinh thái biển hiện đại, thông minh, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ bảy, phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường. Tạo chuyển biến về chất lượng trong giáo dục và đào tạo; đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển vùng, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển vùng. Chú trọng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bãi ngang, hải đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trên cơ sở quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng./.

 
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ bao gồm 14 tỉnh, thành phố: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Vùng có 1.800 km bờ biển, chiếm hơn 55% bờ biển cả nước và nhiều cảng biển, cảng hàng không lớn nên có ý nghĩa quan trọng cho phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Trong giai đoạn vừa qua, toàn vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đã đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005-2020 đạt 7,3%/năm, cao hơn tốc độ tăng cả nước cùng giai đoạn (6,36%/năm). Quy mô kinh tế của Vùng năm 2020 đạt 1.157 nghìn tỷ đồng, gấp 3,3 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo; một số ngành kinh tế cơ bản, nhất là các ngành kinh tế biển, các ngành có giá trị gia tăng cao được hình thành và phát triển; du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

 
Thu Hường