Kết quả tính toán thử nghiệm giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP, GRDP của Việt Nam

|

Kết quả tính toán thử nghiệm giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP, GRDP của Việt Nam

Sáng ngày 04/12/2023, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Hội thảo “Phương pháp và Kết quả đo lường chỉ tiêu Tỷ trọng giá trị tăng thêm của Kinh tế số trong GDP, GRDP của Việt Nam”. Tại Hội thảo này các đại biểu đã được nghe giới thiệu về một số kết quả tính toán thử nghiệm chỉ tiêu tỷ trọng giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP, GRDP của Việt Nam. Dưới đây, Tạp chí Con số và Sự kiện xin giới thiệu một số kết quả tính toán thử nghiệm chỉ tiêu này và một số đề xuất giải pháp hoàn thiện kinh tế số.
 
Kết quả tính toán thử nghiệm toàn nền kinh tế

 
 

 

Theo kết quả tính toán thử nghiệm giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP được Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố tại Hội thảo, Tỷ trọng giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP bình quân giai đoạn 2020-2022 đạt khoảng 12,75% và năm 2022 là 12,67%, trong đó ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,77% (chiếm 61,29%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,91% (chiếm 38,71%). Theo khu vực kinh tế, đóng góp kinh tế số của khu vực dịch vụ trong GDP cao nhất, bình quân giai đoạn 2020-2022 đạt 6,59%; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 6,11%; số hóa trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản có tỷ trọng thấp nhất trong 3 khu vực, bình quân giai đoạn 2020-2022 chỉ đóng góp khoảng 0,05% trong GDP. Giai đoạn 2020-2022, quy mô kinh tế số có xu hướng gia tăng, thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, hoạt động số hóa của các ngành kinh tế ngày càng được tăng cường, đặc biệt là các ngành dịch vụ có xu hướng số hóa ngày càng tăng giúp tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ trong GDP từ 6,54% năm 2020 lên 6,61% năm 2022.
 
Các ngành có hoạt động số hóa cao bao gồm: Thương mại; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; Hoạt động phát thanh, truyền hình; Hoạt động dịch vụ tài chính; Hoạt động kinh doanh bất động sản. Năm 2020, giá trị tăng thêm tạo ra do hoạt động số hóa của ngành thương mại theo giá hiện hành lớn nhất đạt 118,13 tỷ đồng và tăng lên 1,36 lần vào năm 2022 (chiếm 34,18% tổng giá trị tăng thêm tạo ra do hoạt động số hóa). Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí cho thấy ứng dụng hiệu quả hoạt động số hóa vào trong quá trình sản xuất, giá trị tăng thêm tạo ra do hoạt động số hóa của ngành này theo giá hiện hành năm 2022 đạt gần 45 tỷ đồng (chiếm 9,61%); sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; ngành hoạt động phát thanh, truyền hình (Ngành phát thanh, truyền hình được coi như số hóa 100% vì xu hướng phát triển của ngành này dựa hoàn toàn trên môi trường số, đồng thời cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc cũng đang dự thảo đưa ngành này thuộc các ngành kinh tế số và sẽ tiến hành sửa đổi hệ thống phân ngành quốc tế trong thời gian tới); hoạt động dịch vụ tài chính; hoạt động kinh doanh bất động sản lần lượt là 26,86 tỷ đồng (chiếm 5,73%); 23,19 tỷ đồng (chiếm 4,95%); 21,11 tỷ đồng (chiếm 4,51%); 19,32 tỷ đồng (chiếm 4,12%). Một số ngành có hoạt động số hóa thấp gần như không thực hiện số hóa như hoạt động thú y; hoạt động trợ giúp xã hội không tập trung; hoạt động chăm sóc, điều dưỡng tập trung; sản xuất sản phẩm thuốc lá; Xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải khác ...  (chiếm khoảng 0,005% tổng giá trị tăng thêm tạo ra do hoạt động số hóa).

Theo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Hoạt động của ngành kinh tế số lõi đã có những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế số cũng như kinh tế nói chung ở Việt Nam, tập trung ở một số tỉnh, thành phố như Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc... Tuy nhiên do đặc đặc thù kinh tế của mỗi địa phương nên tỷ trọng này ở các tỉnh/thành phố là khác nhau. Năm 2022, trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 5 tỉnh, thành phố có tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GRDP trên 20%; 7 tỉnh, thành phố có tỷ trọng từ 10-20%; 44 tỉnh, thành phố có tỷ trọng từ 5-10% và chỉ có 7 tỉnh, thành phố có tỷ trọng này dưới 5%.

 


 
Một số địa phương có tỷ trọng giá trị tăng thêm kinh tế số năm 2022 trong GDP cao chủ yếu do đóng góp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học như: tỉnh Bắc Ninh (46,75%), tỉnh Thái Nguyên (34,24%), tỉnh Bắc Giang (32,42%), thành phố Hải Phòng (27,22%), tỉnh Vĩnh Phúc (24,67%)…. Đây là những địa phương thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho hoạt động kinh tế số lõi, giá trị tăng thêm của kinh tế số lõi chiếm khoảng 87% - 96% tổng giá trị tăng thêm kinh tế số của địa phương. Thành phố Hà Nội 15,41%, trong đó kinh tế số lõi chiếm khoảng 75% và Thành phố Hồ Chí Minh là 13,51%, trong đó kinh tế số lõi chiếm khoảng 69%. Hơn nữa, xu hướng số hóa các ngành ở các địa phương ngày càng được đẩy mạnh thể hiện ở tỷ trọng số hóa của các ngành kinh tế đang có xu hướng tăng ở tất cả các địa phương.
 
Báo cáo cho biết, nhìn chung, kinh tế số ngày càng phát triển và đóng góp nhiều hơn trong tăng trưởng, đặc biệt là hoạt động số hóa của các ngành, các lĩnh vực có xu hướng tăng dần qua các năm. Điều này thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lý điều hành, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số và xã hội số ở Việt Nam.

Giải pháp hoàn thiện đo lường kinh tế số

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số ngày càng phát triển mạnh mẽ, sẽ đóng góp nhiều hơn vào chuyển đổi mô hình tăng trưởng; kết hợp xu thế số hóa đã tạo cơ hội cho các quốc gia trên thế giới chuyển đổi toàn diện nền kinh tế, đồng thời đặt ra yêu cầu khẩn trương và quyết liệt trong việc tìm kiếm, khuyến khích các ngành, hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số. Đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Để đo lường và tính toán đóng góp giá trị tăng thêm của kinh tế số trong các hoạt động kinh tế, ngoài các nguồn thông tin đã nêu trên, cần phải tiến hành thu thập thông tin về ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh quản lý điều hành hằng năm. Định kỳ 5 năm một lần tiến hành điều tra lập bảng cân đối liên ngành và xây dựng hệ số chi phí trung gian cho cả nước, cho các vùng kinh tế - xã hội. Hơn nữa, để đo lường đầy đủ, toàn diện đóng góp kinh tế số trong tăng trưởng kinh tế các cấp, các ngành cần quan tâm, thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò kinh tế số trong nền kinh tế

 Hiện nay, nhận thức, nhu cầu và hành động theo xu thế kinh tế số chưa được đầy đủ trong xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam cần có sự tham gia tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, tạo sự chuyển biến về xu hướng, vai trò và định hướng ứng dụng kinh tế số trong phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện nay.

Hai là, tăng cường sự hợp tác, phối hợp giữa Tổng cục Thống kê với Bộ, ngành, địa phương

Các bộ, ngành, địa phương và các bên có liên quan tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin phục vụ biên soạn chỉ tiêu đo lường kinh tế số.

Ba là, quan tâm xây dựng thể chế để bố trí nguồn lực phù hợp, thúc đẩy ứng dụng kinh tế số trong các hoạt động kinh tế và quản lý, điều hành

Các bộ, ban, ngành sớm ban hành các văn bản hướng dẫn để huy động và sử dụng các nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế số đạt được mục tiêu đã đề ra.

Các địa phương quan tâm hoàn thiện thể chế, bố trí nguồn lực, hỗ trợ thu thập thông tin phục vụ biên soạn các chỉ tiêu liên quan đến kinh tế số trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đặc biệt là hoạt động thương mại điện tử. Thực hiện các điều tra chuyên sâu để thu thập thông tin liên quan đến hoạt động số hóa và xây dựng các hệ số kỹ thuật phục vụ biên soạn các chỉ tiêu kinh tế số phản ánh đầy đủ, sát thực đóng góp của kinh tế số trong phát triển kinh tế -xã hội của nước ta./.