Dân số đạt 100 triệu dân năm 2023 - Thực trạng, thách thức và giải pháp trong công tác bảo đảm an sinh xã hội

|

Dân số đạt 100 triệu dân năm 2023 - Thực trạng, thách thức và giải pháp trong công tác bảo đảm an sinh xã hội

 Theo dự báo của các chuyên gia, năm 2023, dân số Việt Nam đạt trên 100 triệu dân. Đây là nguồn lực vững vàng xây dựng đất nước, nhưng cũng là thách thức cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách với việc tìm ra giải pháp để xây dựng hệ thống an sinh xã hội (ASXH) toàn diện ở Việt Nam. 

Trong những năm qua, việc triển khai có hiệu quả các chính sách xã hội góp phần bảo đảm ASXH cho người dân chính là thành tựu to lớn trong thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Để hướng tới một hệ thống ASXH toàn diện, thời gian tới, hệ thống chính sách xã hội, bảo đảm ASXH cần được cải cách sâu rộng, đồng bộ, theo hướng xây dựng và phát triển một hệ thống chính sách ASXH toàn diện, bao trùm, bền vững.

Bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam - Những kết quả tích cực

ASXH là hệ thống chính sách công nhằm trợ giúp các cá nhân và nhóm xã hội yếu thế để đảm bảo các điều kiện sống cơ bản của mọi người dân toàn quốc. Quyền được bảo đảm ASXH là một trong những quyền cơ bản của con người, điều này đã được Hiến pháp nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013 hiến định “Công dân có quyền được đảm bảo ASXH” tại Điều 34 của Hiến pháp. Nghị quyết 15-NQ/TW của Đảng “về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã có bước tiến đáng kể về tăng cường hệ thống ASXH. Nghị quyết 15-NQ/TW đưa ra quan điểm bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Hệ thống ASXH phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.

 

Ảnh minh họa

Từ năm 2012, nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc tăng cường hệ thống ASXH khi việc sửa đổi các văn bản được thực hiện như: Luật Việc làm (2013), Luật Bảo hiểm xã hội (2014) và Luật Bảo hiểm y tế (2014). Việc sửa đổi các văn bản đã giúp đưa hệ thống ASXH đến gần và tim cận hơn trong giải quyết các nhu cầu thực tế của người dân.

Trong hệ thống ASXH, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò trụ cột chính của hệ thống ASXH, là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, khi ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm cũng như khi đến tuổi già không còn khả năng lao động. Sau 28 năm xây dựng và phát triển, ngành BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên hơn 16 triệu người năm 2022, tăng trên 7,5 lần; Số người tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 1,5 triệu người năm 2022, tăng 250 lần; Số người tham gia bảo hiểm tự nguyện (BHTN) tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên hơn 14,3 triệu người năm 2022, tăng gần 2,4 lần; Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên hơn 91,1 triệu người năm 2022, tăng 12,8 lần, đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số  và cơ bản hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân.

Bên cạnh đó, công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT được ngành BHXH Việt Nam thực hiện kịp thời, đúng quy định đảm bảo nguyên tắc "đóng - hưởng". Kết quả, từ năm 1995 đến hết năm 2022, toàn Ngành đã giải quyết cho khoảng hơn 136 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; từ năm 2010 đến hết năm 2022 phối hợp giải quyết cho gần 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; đến cuối năm 2022, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người; từ năm 2003 đến 2022, toàn Ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh BHYT cho trên 2.368 triệu lượt người. Đặc biệt, 3 năm (từ năm 2020 đến năm 2022), trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã làm ảnh hưởng đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và người lao động, ngành BHXH Việt Nam đã chủ động và quyết liệt tham gia cùng các Bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Đồng thời, tập trung huy động mọi nguồn lực, trên nền nguồn dữ liệu sẵn có để triển khai kịp thời các gói hỗ trợ từ quỹ BHXH, BHTN với tổng số tiền hỗ trợ lên trên 47,2 nghìn tỷ đồng.

Chính sách lao động - việc làm được thực hiện hiệu quả, góp phần xây dựng thị trường lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân đảm bảo ASXH. Theo Tổng cục Thống kê, quý I năm 2023, nhờ tập trung thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 14/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo việc làm bền vững, nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân lao động; Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 của Chính phủ về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội nên thị trường lao động tiếp tục duy trì đà phục hồi. Lực lượng lao động, số người có việc làm quý I năm 2023 tiếp tục tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý I năm 2023 là 52,2 triệu người, tăng 88,7 nghìn người so với quý trước và tăng hơn một triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2023 là 68,9%, không thay đổi so với quý trước và tăng 0,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Số người lao động có việc làm tiếp tục tăng. Quý I năm 2023, số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm đạt 51,1 triệu người, tăng 113,5 nghìn người so với quý trước, tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước và tăng 677,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2019, năm trước khi dịch Covid-19 xảy ra. Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I năm 2023 là 7,0 triệu đồng, tăng 197 nghìn đồng so với quý trước và tăng 640 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.

Hình 1: Số người có việc làm, quý I các năm 2019-2023 và quý IV năm 2022

Đơn vị tính: Nghìn người
 

                                                                                            Nguồn: Tổng cục Thống kê

Kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, tình hình đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 4,6 triệu đồng/người/tháng, tăng 9,5% so với năm 2021. Trong năm 2022, có 23,5% hộ gia đình nhận được sự trợ giúp từ các nguồn hỗ trợ khác nhau. Cụ thể, tỷ lệ hộ nhận được trợ giúp từ các chương trình, chính sách chung của quốc gia là 9,5%; từ các chương trình, chính sách của địa phương là 8,7%; từ các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân khác là 4,9% và từ các nguồn khác là 0,1%.

Giảm nghèo là một cấu phần của hệ thống ASXH. Kết quả đạt được trong giảm nghèo bền vững đã góp phần củng cố hệ thống ASXH đảm bảo trợ giúp ngày càng tốt hơn cho những người nghèo gặp khó khăn trong cuộc sống. Những năm qua, chính sách xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh thực hiện với sự chung tay của toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Việt Nam đã 8 lần ban hành chuẩn nghèo quốc gia theo mô hình tháp giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu người nghèo từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ. Việt Nam cũng là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.

Thông qua các chính sách xóa đói, giảm nghèo, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Cụ thể, kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% năm 2010 xuống còn 4,25% năm 2015, theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, bình quân giảm 2%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo đã giảm từ 58,33% cuối năm 2010 xuống 50,97% cuối năm 2011 (giảm 7,36%), 43,89% cuối năm 2012 (giảm 7,08%), 38,2% cuối năm 2013 (giảm 5,69%), 32,59% cuối năm 2014 (5,61%) và còn 28% cuối năm 2015 (giảm 4,59%); bình quân giảm trên 6%/năm. Thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước tăng lên 1,6 lần so với cuối năm 2011 (riêng các hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi tăng gấp 2,5 lần) đạt mục tiêu đề ra.

Giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ nghèo cả nước giảm từ 9,88% (2015) xuống còn 5,23% (2018), bình quân mỗi năm giảm 1,55% đạt và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra; tỷ lệ nghèo các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, vượt mục tiêu (giảm 4%); các xã đặc biệt khó khăn giảm từ 3-4% trở lên mỗi năm, đạt mục tiêu.

Tháng 11/2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành hệ thống chỉ tiêu đo mức nghèo đa chiều quốc gia áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình Việt Nam chuyển đổi từ cách tiếp cận nghèo dựa vào thu nhập sang nghèo đa chiều, đưa Việt Nam là quốc gia tiên phong trong khu vực về áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, làm cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 (UNDP).

Báo cáo Nghèo đa chiều 2021 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP Việt Nam) phối hợp thực hiện cho thấy, Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc giảm nghèo đa chiều. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm liên tục từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020. Điều đáng chú ý là khoảng cách giữa tỷ lệ nghèo về thu nhập và tỷ lệ nghèo đa chiều đã thu hẹp đáng kể, chỉ còn 0,6 điểm phần trăm vào năm 2020. Điều này cho thấy, tỷ trọng dân số cận nghèo thu nhập với ít nhất 3 mức độ thiếu hụt đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2016 - 2020.

Với những thành tựu đạt được trong giảm nghèo, năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo,” về đích trước gần 10 năm so với thời hạn (thời hạn là năm 2015) và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Năm 2025, Việt Nam phấn đấu tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0 -1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3,0%/năm; 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4 - 5%/năm.

Hình 2: Tỷ lệ nghèo theo các thước đo khác nhau (%)
 

Nguồn: Khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê

Về Giáo dục - Y tế, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kết quả sau 8 năm thực hiện đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020" cho thấy, có 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1, trong đó 34/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; các địa phương đã tổ chức xóa mù chữ cho trên 300.000 người trong độ tuổi15-60. 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1. 21/63 tỉnh, thành phố (33,3%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và 11/63 tỉnh, thành phố (17,5%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2. 3 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức cao nhất - mức độ 3. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo tăng từ 15,6% năm 2011 lên 20,9% năm 2016 và lên 24,1% năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng chứng chỉ có xu hướng tăng, đến quý I năm 2023, tỷ lệ này đạt 26,4%. Bên cạnh đó, hệ thống y tế cơ sở được hoàn thiện về kết cấu hạ tầng và nhân lực, trong đó ưu tiên các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn. Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc (giai đoạn 2018-2020) cho thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi/chiều cao/tuổi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là 19,6%. Kết quả này tiếp nối kỳ tích giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 19,9% vào năm 2008. Y tế dự phòng được tăng cường. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh trong kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019 là 97,4%, trong đó 52,2% hộ sử dụng nguồn nước máy. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 99,6%; ở khu vực nông thôn là 96,3%. Điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, nhà ở cho người là lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên từng bước được cải thiện.

Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 30/11/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đã giải ngân khoảng 3,74 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho gần 123 nghìn lượt doanh nghiệp với gần 5,3 triệu lượt lao động. Trong đó, hỗ trợ 3.213,6 tỷ đồng cho 4,82 triệu lượt người lao động đang làm việc trong hơn 94 nghìn doanh nghiệp; hỗ trợ 527,2 tỷ đồng cho gần 451 nghìn lượt lao động quay trở lại thị trường lao động tại gần 29 nghìn doanh nghiệp. Ngoài ra, để người dân không bị thiếu đói, Chính phủ cấp xuất tổng số 24,8 nghìn tấn gạo hỗ trợ cho 492,5 nghìn hộ với 1,6 triệu nhân khẩu. Trong đó: Gần 14 nghìn tấn gạo hỗ trợ cho 291,7 nghìn hộ với 930,6 nghìn nhân khẩu trong dịp Tết Nhâm Dần; 10,4 nghìn tấn gạo cho 192,4 nghìn hộ với 691,4 nghìn khẩu dịp giáp hạt; 432,7 tấn gạo hỗ trợ hậu quả khắc phục thiên tai cho 8,4 nghìn hộ với 28,9 nghìn nhân khẩu.

Công tác ASXH định kỳ tiếp tục được quan tâm, chỉ đạo, các địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, chăm lo cho các đối tượng cần trợ giúp. Trong năm 2021, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là 9,7 nghìn tỷ đồng, trong đó, hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,4 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác là 2,5 tỷ đồng. Có gần 29,1 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng. Năm 2022, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 14,4 nghìn tỷ đồng. Trong đó, hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,7 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là hơn 2,7 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác phát sinh tại địa phương là gần 4,6 nghìn tỷ đồng. Có gần 29,8 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng. Trong bối cảnh đại dịch Covid - 19, việc chăm lo đời sống, đảm bảo sức khỏe của người dân đã nhận được sự quan tâm kịp thời và thiết thực của Đảng và Nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách đã được hiện thực hóa hiệu quả và những gói kinh phí hỗ trợ kịp thời chuyển tới các đối tượng cần được trợ giúp điều này thể hiện rõ tính nhân văn sâu sắc và đặc biệt có ý nghĩa đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tại phiên họp lần thứ 19 của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 diễn ra vào ngày 23/12/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia, cho biết: Công tác đảm bảo ASXH, Trung ương và các địa phương đã chi 87.000 tỷ đồng hỗ trợ 55,68 triệu lượt người dân và gần 1 triệu lượt người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covi-19. Thực hiện Quyết định số 08/2022/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, đến ngày 30/11/2022, các địa phương đã hoàn thành việc tiếp nhận, giải quyết chi trả hỗ trợ cho hơn 5,2 triệu lượt người lao động và xấp xỉ 123 nghìn lượt người sử dụng lao động với kinh phí gần 3.741 tỷ đồng.

Có thể thấy cùng với những thành tựu về kinh tế, thời gian qua với sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự đồng hành của Quốc hội và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các địa phương, các chính sách ASXH đã được triển khai kịp thời, thiết thực và hiệu quả. Hệ thống chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (2012-2022) đã bảo đảm công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế; bảo đảm cơ bản quyền an sinh của người dân; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, từng bước đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.

Thách thức và các giải pháp thực hiện ASXH toàn diện

Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác ASXH ở nước ta còn một số hạn chế, bất cập. Chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, thiếu liên kết giữa các chính sách trong tổ chức thực hiện, tỷ lệ bao phủ thấp. Chênh lệch mức sống giữa các vùng, miền, nhóm đối tượng còn lớn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, chuẩn nghèo và chuẩn trợ cấp còn thấp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. BHXH còn thấp, chưa thật sự hấp dẫn người lao động. Chất lượng dịch vụ y tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội phát triển chậm. Đầu tư chính sách xã hội còn có mặt chưa hiệu quả...

Nguồn lực tài chính cho ASXH còn hạn hẹp, mức độ hỗ trợ còn thấp; việc phát huy tiềm năng và trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực ASXH chưa được sâu rộng; chất lượng dịch vụ ASXH chưa cao, nhất là các dịch vụ bảo hiểm, y tế. Các sản phẩm dịch vụ ASXH vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Hệ thống ASXH chưa bao phủ hết các mặt, các lĩnh vực, đối tượng tham gia còn hẹp.

Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả ASXH, bảo đảm người dân được bảo vệ tốt hơn trước các rủi ro về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, Chính phủ xác định nhiệm vụ cải cách hệ thống ASXH hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống ASXH toàn diện, bền vững sẽ là yếu tố xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước để hiện thực hoá mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước hướng đến ASXH cho tất cả mọi người dân.

Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH đề ra nội dung cải cách theo hướng thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ. Nghị quyết 28-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025: Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%. Đến năm 2030, phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 90%.

Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030” đặt mục tiêu giai đoạn 2021-2025 có 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số;70% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 30% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện. Về tầm nhìn đến năm 2030, có 90% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện; mức trợ cấp xã hội điều chỉnh phù hợp với khả năng ngân sách và xu hướng quốc tế.

Để đảm bảo ASXH phát triển trong thời gian tới cần tập trung vào các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Về trợ giúp xã hội

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách trợ giúp xã hội. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp trong chỉ đạo, huy động nguồn lực và thực hiện trợ giúp xã hội.

Hai là, tuyên truyền, phổ biến quan điểm chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về trợ giúp xã hội, vận động xã hội nhằm thay đổi cách thức trợ giúp xã hội theo hướng tiên tiến, hiệu quả, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và trợ giúp đối tượng trợ giúp xã hội.

Ba là, hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội. Theo đó, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng theo mục tiêu của Đề án; nghiên cứu, xây dựng mức chuẩn trợ cấp xã hội và các hệ số trợ cấp xã hội dựa trên nhu cầu tối thiểu của con người, theo vòng đời và bảo đảm hội nhập quốc tế. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, gia đình, cộng đồng tham gia trợ giúp khẩn cấp; lồng ghép trợ giúp khẩn cấp với các đề án, chương trình, chính sách liên quan ở các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt, tác động của biến đổi khí hậu có sự hỗ trợ của Nhà nước.

Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, giải quyết, chi trả trợ giúp xã hội, bảo đảm tích hợp các chính sách trợ giúp xã hội với các chính sách an sinh xã hội. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên làm công tác trợ giúp xã hội.

Năm là, xây dựng mô hình cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện, hướng đến năm 2030 cứ 5.000 người dân có một nhân viên công tác xã hội, trợ giúp xã hội chuyên nghiệp.

Sáu là, xây dựng kế hoạch, phân bổ ngân sách căn cứ vào tình hình thực tế của từng Bộ, ngành và địa phương; nâng định mức phân bổ chi bảo đảm xã hội cao hơn mức quy định hiện nay. Đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa nguồn lực thực hiện trợ giúp xã hội, nhất là trợ giúp khẩn cấp.

Bảy là, đẩy mạnh nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế trên các lĩnh vực phòng ngừa, phát hiện, chăm sóc và trợ giúp xã hội cho đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng.

Tám là, tăng cường hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài trong việc hỗ trợ kinh nghiệm, nguồn lực để triển khai các hoạt động của Đề án.

Về cải cách chính sách BHXH

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội.

Hai là, thể chế hoá các chủ trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách người có công với cách mạng và các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động.

Ba là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh.

Bốn là, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Tài liệu tham khảo

Hiến pháp Nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013.

Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giia đoạn 2012 – 2020.

Nghị quyểt số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội.

Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/ 2017 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2022 của Tổng cục Thống kê

Báo cáo tình hình thị trường lao động-việc làm quý I năm 2023 của Tổng cục Thống kê

Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê

Bảo hiểm xã hội Việt Nam: 28 năm nỗ lực vì sự nghiệp an sinh xã hội https://dangcongsan.vn/

Thành tựu về xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam https://www.xaydungdang.org.vn

Nỗ lực giảm nghèo đa chiều: Phía trước còn nhiều thách thức https://vneconomy.vn

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Thành tựu trong công tác giảm nghèo ở nông thôn giai đoạn 2010 - 2020; định hướng, giải pháp trong giai đoạn 2021 - 2025 https://www.moha.gov.vn

Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP Việt Nam) phối hợp thực hiện

ThS. Nguyễn Phương Anh

Khoa Công tác - Xã hội - Đại học Lao động Xã hội