Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, các cấp, ngành, địa phương tiếp tục phát huy tinh thần đột phá, đổi mới, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành cao nhất các nhiệm vụ, mục tiêu và khối lượng lớn công việc, nhất là trong hoàn thiện thể chế, pháp luật, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, nhằm đạt kết quả cao nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2024, củng cố các yếu tố nền tảng, tạo đà cho năm 2025 và các năm tiếp theo.
Tính chung 09 tháng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 122 Nghị định, 215 Nghị quyết, 1.129 quyết định, 35 chỉ thị. Tăng trưởng GDP Quý III ước đạt 7,4% so với cùng kỳ, cao hơn 0,7% so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP (6,7%). Tính chung 09 tháng, tăng trưởng GDP đạt 6,82%, trong đó, khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 8,19%, dịch vụ tăng 6,95%. Các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao như Bắc Giang (13,89%), Thanh Hóa (12,46%), Lai Châu (11,63%), Hà Nam (10,89%)… Bên cạnh đó, một số địa phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi bão số 3 vẫn giữ được đà tăng trưởng cao như Hải Phòng (9,77%), Quảng Ninh (8,02%), Phú Thọ (9,56%), Lào Cai (7,71%), Cao Bằng (7%), Yên Bái (7,15%)…
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm; bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài trong giới hạn cho phép. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 09 tháng tăng 3,88% so với cùng kỳ trong bối cảnh đã thực hiện việc tăng lương từ ngày 01/7/2024 và điều chỉnh giá một số dịch vụ. Tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, phù hợp với diễn biến thị trường thế giới. Thu NSNN 09 tháng ước đạt 85,1% dự toán, tăng 17,9% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 09 tháng tăng lần lượt 16,3%, 15,4% và 17,3% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 20,8 tỷ USD.
Các động lực tăng trưởng từ phía cung tiếp tục chuyển biến tích cực. Sản xuất nông nghiệp duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Khu vực dịch vụ tăng khá, tích cực hơn qua từng tháng, từng quý. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi nhanh, là động lực dẫn dắt cho tăng trưởng kinh tế; các địa phương đã kịp thời khắc phục các sự cố về điện, viễn thông, bảo đảm điều kiện để doanh nghiệp tổ chức sản xuất trở lại ngay sau bão lụt. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Quý III tăng 11,4% so với cùng kỳ, cao nhất từ năm 2019 đến nay; chỉ số tiêu thụ tăng 12,5%, tỷ lệ tồn kho giảm.
Trong tháng Chín, có khoảng 17,7 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tính chung 09 tháng có khoảng 183 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số rút lui khỏi thị trường (163,8 nghìn doanh nghiệp). Theo khảo sát của Tổng cục Thống kê, khoảng 82,6% doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo đánh giá tình hình kinh doanh trong Quý IV sẽ ổn định hoặc tốt lên so với Quý III, cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào sự phục hồi tích cực của nền kinh tế trong năm 2024.
Các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực hơn. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội phục hồi qua từng quý, Quý III tăng 7,0% so với cùng kỳ; 09 tháng tăng 6,8%, trong đó đầu tư tư nhân tăng 7,1% (cùng kỳ năm 2023 tăng 2,1%). Thu hút FDI tiếp tục là điểm sáng, tổng vốn FDI đăng ký 09 tháng khoảng 24,8 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ, trong đó FDI đăng ký mới khoảng 13,6 tỷ USD, tăng 11,3%; vốn FDI thực hiện khoảng 17,3 tỷ USD, tăng 8,9%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 tăng 7,6% so với cùng kỳ, 09 tháng tăng 8,8%; khách quốc tế 09 tháng khoảng 12,7 triệu lượt người, tăng 43%. Xuất khẩu tiếp tục là điểm sáng, hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực tăng trưởng cao.
Về phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, tính đến ngày 30/9/2024, các bộ, cơ quan và địa phương đã phân bổ chi tiết 664,9 nghìn tỷ đồng, đạt 98,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Số vốn chưa phân bổ chi tiết là 13,03 nghìn tỷ đồng, bao gồm: vốn NSTW là 5,94 nghìn tỷ đồng, vốn cân đối NSĐP là 7,09 nghìn tỷ đồng. Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét điều chỉnh 8,4 nghìn tỷ đồng từ các bộ, ngành, địa phương chưa phân bổ hoặc không giải ngân được sang các bộ, ngành, địa phương khác. Ước thanh toán đến 30/9/2024 đạt 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2023 đạt 51,38%). Bên cạnh các bộ, ngành, địa phương giải ngân tốt như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Yên Bái, Phú Thọ, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Tiền Giang, Long An… còn 31 bộ, cơ quan và 23 địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp hơn trung bình của cả nước.
Về triển khai 03 Chương trình mục tiêu Quốc gia, tính đến ngày 30/9/2024, các bộ, cơ quan, địa phương đã phân bổ chi tiết khoảng 26,4 nghìn tỷ đồng kế hoạch vốn đầu tư (khoảng 97% kế hoạch) và 20,2 nghìn tỷ đồng vốn sự nghiệp (đạt 100% dự toán) cho 03 CTMTQG. Ước giải ngân vốn đầu tư đạt 14,8 nghìn tỷ đồng, khoảng 54,4% kế hoạch.
Với tinh thần quyết liệt tập trung hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; xử lý tồn đọng, vướng mắc; đẩy mạnh đầu tư các dự án hạ tầng chiến lược, quan trọng; thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt công tác hoàn thiện thể chế theo tinh thần cải cách, đổi mới về tư duy xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; Trung ương, Chính phủ, Quốc hội giữ vai trò kiến tạo, tăng cường hoàn thiện thể chế và kiểm tra, giám sát; Bảo đảm chất lượng, tiến độ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8 các Luật Đầu tư công (sửa đổi), luật sửa đổi, bổ sung các luật về quy hoạch, đầu tư, tài chính ngân sách, quản lý nợ công... để tháo gỡ ngay những vướng mắc, điểm nghẽn ở tầm luật.
Trong 09 tháng, đã thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất khoảng 116,4 nghìn tỷ đồng. Ngân hàng Nhà nước đã nâng quy mô gói tín dụng cho vay lâm sản, thủy sản lên gấp 2 lần, khoảng 60 nghìn tỷ đồng; chỉ đạo các ngân hàng triển khai các giải pháp tín dụng để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3. Tiến độ giải ngân gói 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội được đẩy nhanh.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống người dân tiếp tục được nâng lên. Các chương trình tín dụng 09 tháng đã hỗ trợ vay vốn cho trên 1,8 triệu đối tượng, tạo việc làm cho hơn 533 nghìn lao động; trong đó, đã hỗ trợ vay vốn cho 84,5 nghìn đối tượng bị ảnh hưởng bởi bão số 3, với tổng quy mô trên 05 nghìn tỷ đồng. Làm tốt công tác ứng phó khẩn cấp, hỗ trợ lương thực, nhu yếu phẩm, chỗ ở tạm và hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai với tinh thần không để dân đói, dân rét, không có chỗ ở, học sinh sớm được đến trường, người bệnh phải được cứu chữa; trong đó, đã kịp thời xuất cấp 432,6 tấn gạo cứu đói, hỗ trợ giống cây trồng, hóa chất khử trùng, khử khuẩn... để giúp Nhân dân khắc phục hậu quả bão số 3, sớm ổn định đời sống, sản xuất.
Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm Quý III/2024 lần lượt là 2,24% và 1,87%, giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ hộ dân đánh giá thu nhập được cải thiện tháng 9 đạt 96,2%, cao hơn cùng kỳ năm trước (94,1%). Phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo trên cả nước tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ.
Mặc dù đánh giá cao những xu hướng tích cực của nền kinh tế, nhưng Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đáng chú ý là các động lực tăng trưởng còn nhiều khó khăn, thách thức, cần quyết liệt hơn nữa để cải thiện, tháo gỡ.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, bão số 3 đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp và du lịch tại miền Bắc, gây ngập úng, thiệt hại cho khoảng 384.800 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả; khiến 35.000 ha nuôi trồng thủy sản và 11.800 lồng bè bị hư hỏng, cuốn trôi; nhiều cơ sở lưu trú, du lịch bị hư hỏng, phải đóng cửa để sửa chữa, có thể bỏ lỡ mùa khách du lịch cuối năm. Vì vậy, cần đẩy mạnh, tiếp tục triển khai hiệu quả, kịp thời các giải pháp hỗ trợ để người dân, doanh nghiệp sớm khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh, hạn chế tác động tiêu cực đến tăng trưởng quý IV và đầu năm 2025.
Theo Bộ trưởng, bên cạnh những khó khăn ở phía cung, thì ở phía cầu, thách thức cũng là không nhỏ, nhất là khi tốc độ phục hồi đầu tư còn chậm; nguồn lực đầu tư của khu vực nhà nước chưa được thúc đẩy, kích hoạt một cách hiệu quả, 9 tháng chỉ tăng 4,1% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2023 tăng 15,9%).
Bên cạnh đó, xuất khẩu dự báo có thể khó khăn hơn trong thời gian tới, nhất là từ đầu năm 2025, do tình hình thế giới khó lường, nhiều rủi ro, đặc biệt là xung đột tại Trung Đông, Ukraine…, việc điều chỉnh chính sách của một số nước lớn, đối tác quan trọng của Việt Nam, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, tăng trưởng sức mua tại các thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU… chậm lại…
Cùng với đó, ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro, nhất là do các yếu tố bên ngoài. Áp lực lạm phát tiếp tục cần được theo dõi sát, nhất là biến động nguồn cung, giá dầu, hàng hóa thế giới. Tín dụng tăng trưởng chưa cao; khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu; áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp bất động sản lớn…
Trong bối cảnh đó, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, các cấp, ngành, địa phương cần phối hợp chặt chẽ, chủ động, hiệu quả hơn nữa, phát huy tinh thần đột phá, đổi mới, sáng tạo để hoàn thành tốt nhất công việc được giao, thúc đẩy nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ hơn, phấn đấu tốc độ tăng trưởng cả năm đạt và vượt 7%. /.