Đây là nhận định của Nhà nghiên cứu, Giáo sư (GS) Đặng Hoành Loan - người phản biện hồ sơ Di sản Dân ca Ví, Giặm khi hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận dân ca Ví, Giặm là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngay sau khi dân ca Ví, Giặm được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện cùng Giáo sư về việc bảo tồn, gìn giữ di sản này.
* Thưa GS, là người phản biện cho hồ sơ di sản, ông đánh giá thế nào về giá trị nghệ thuật của dân ca Ví, Giặm của chúng ta?
- Ví, Giặm ra đời là nghệ thuật của phường nghề. Chúng ta chưa biết lúc ra đời thì phường nghề to thế nào, hoạt động ra sao, nhưng chí ít, nó là sản phẩm của phường cấy, phường vải, phường chài… Nghệ thuật Ví, Giặm ấy đáp ứng nhu cầu của người lao động trong quá trình sáng tạo, nó phản ánh toàn bộ tâm tư, tình cảm của cộng đồng thông qua hình thức dân ca.
Cho đến khi xã hội thay đổi, nhiều nghệ thuật khác đã không kịp thay đổi, còn Ví, Giặm đã tự mình chuyển đổi, từ nghệ thuật thực hành trrong các cộng đồng, trong các phường nghề trở thành nghệ thuật trình diễn. Người ta trình diễn nó, người ta ca hát nó trong đời sống thường nhật. Chính vì sự chuyển đổi đó, nên dân ca Ví, Giặm phản ánh sinh động đời sống của con người trong các giai đoạn lịch sử. Nó được cộng đồng ca hát, được cộng đồng bảo tồn.
Về mặt nghệ thuật học, phải nói rằng nghệ thuật dân ca Ví, Giặm đã đóng góp cho kho tàng âm nhạc Việt Nam một hình thức dân ca khác với tất cả các hình thức âm nhạc dân gian có từ Thanh Hóa ra hết miền Bắc. Nó là nhạc ngữ riêng của vùng Trung Trung Bộ, không giống như nhạc ngữ của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã. Nhạc ngữ ấy làm cho âm nhạc dân gian Việt Nam phong phú hơn về âm hưởng, đặc biệt nó là tiền đề của sáng tạo nghệ thuật mới dựa trên âm hưởng dân ca Ví, Giặm. Cũng chính nhờ có Ví, Giặm chúng ta có hàng trăm, bài âm nhạc, dân ca mới, nhạc không lời mới viết trên chất liệu Ví Giặm. Nói cách khác, Ví Giặm là chất liệu giúp các nhạc sĩ sáng tác nên những tác phẩm mang đầy tính hiện thực.
Điều đặc biệt, Ví, Giặm được UNESCO công nhận là di sản, được cộng đồng yêu mến, gìn giữ, sinh hoạt. Qua đó, có thể khẳng định di sản có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trong cộng đồng ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
* Ví, Giặm có sức sống mãnh liệt như thế, vậy theo ông chúng ta nên bảo tồn và phát huy giá trị di sản như thế nào để di sản không bị “lệch hướng” như một số loại hình di sản phi vật thể sau khi được UNESCO vinh danh?
- Như trên tôi vừa nói, Ví, Giặm không xa rời đời sống cộng đồng vì bản thân Ví, Giặm được người dân chuyển đổi thành nghệ thuật giải trí cộng đồng. Từ nghệ thuật giải trí cộng đồng, người ta đã xây dựng nên những sân khấu Ví, Giặm, nói cách khác, xây dựng nên một hình thức Ví, Giặm khác không thuộc cái tầng của nghệ thuật Ví, Giặm dân gian. Vì thế có thể nói, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có hai tầng Ví, Giặm, đó là tầng sân khấu hiện đại và tầng văn hóa dân gian. Hai tầng Ví, Giặm này đang song song tồn tại, đang đắp đầy đời sống văn hóa của nhân dân.
Điều này không đáng lo lắng trong việc bảo tồn, càng không lo lắng nó biến mất, vì nếu biến mất thì nó đã biến mất rồi, chuyển đổi thì nó cũng đã chuyển đổi rồi. Khi nó chuyển đổi thành nghệ thuật sinh hoạt thì nó sẽ biến đổi vô cùng để thích nghi với đời sống. Nếu trước kia, người ra hát Ví riêng, hát Giặm riêng, thì nay cứ sau câu hát Ví là họ hát Giặm. Sự chuyển đổi ấy rất hợp lý, hài hòa giữa Ví và Giặm, trở thành một loại hình nghệ thuật dân gian vô cùng độc đáo, sáng tạo, một hình thức tổ chức âm nhạc rất đặc biệt, có sức hấp dẫn đặc biệt với cộng đồng.
Ví, Giặm sân khấu đã ra đời vài chục năm, chắc chắn không làm ảnh hưởng xấu tới di sản dân gian, ngược lại, còn làm đầy hơn đời sống văn hóa của cộng đồng. Ví, Giặm lên được sân khấu là nhờ dân gian, bởi cộng đồng đã chuyển lối sống sinh hoạt thuở xưa ở đồng ruộng, sông nước, các làng dệt vải, trở thành nghệ thuật giải trí với hình thức đối ca, tam ca…
Một tiết mục trong Liên hoan dân ca Ví, Dặm Nghệ Tĩnh, 2013.
* Di sản văn hóa phi vật thể luôn được gìn giữ, lưu truyền qua các nghệ nhân dân gian. Theo ông, phải giữ gìn “báu vật nhân văn” của di sản Ví, Giặm như thế nào?
- Thứ nhất, về Ví, Giặm dân gian, Nghệ Tĩnh đã có sự nghiên cứu, xuất bản rất kỹ về Ví, Giặm, tức là Ví, Giặm được nghiên cứu, bảo tồn một cách nghiêm chỉnh, toàn diện, cả nhạc bản lẫn lời ca.
Thứ hai, chúng ta còn rất nhiều người biết hát Ví, Giặm, không lo bị mai một.
Thứ ba, chúng ta không sợ thiếu đất sống cho Ví, Giặm.
Không giống như những di sản khác, phải có đất sống, phải có không gian văn hóa di sản mới sống được, còn Ví, Giặm không cần. Ví, Giặm đã được nhân dân chuyển hóa rồi. Cái gốc của nó là các phường nghề. Các phường thui chột từ lâu rồi, nhưng Ví, Giặm vẫn sống được, chính người dân đã chuyển hóa nó vào cộng đồng. Chúng ta phải cảm ơn người dân đã chuyển hóa Ví, Giặm rất sớm, để nó có sức sống.
Còn nghệ nhân Ví, Giặm ở độ tuổi cao, đương nhiên hiếm, nghệ thuật nào cũng hiếm. Thế nhưng, nghệ nhân Ví, Giặm lớp trước đã truyền lại cho thế hệ sau khá đầy đủ các làn điệu. Mặt khác, các nhạc sĩ đã trở thành các nhà nghiên cứu, trở thành những người hướng dẫn quần chúng hát Ví, Giặm, thành thử, việc tổ chức hát Ví, Giặm lại vô cùng đơn giản với người dân hai tỉnh. Vì không cần tổ chức, đương nhiên nó vẫn đang tồn tại. Cho nên, tôi không thấy có gì phải lo lắng cả.
Việc bảo tồn di sản này, quan trọng là việc tổ chức, tạo điều kiện cho người dân sinh hoạt. Hiện nay, cứ ngày lễ tết, hội hè, chúng ta thường bỏ quên nghệ thuật dân gian, chỉ thích hướng đến những điều hoành tráng, nhiều khi đánh mất quyền của chủ thể dân gian, quyền sáng tạo của cộng đồng. Chúng ta nên khuyến thích chủ thể dân gian tham gia vào những hoạt động này, nên bắt đầu từ cấp xã, thôn.
Riêng với dân ca Ví, Giặm, đã gắn rất chặt với thời cuộc. Như năm nay, chủ trương của Đảng, Nhà nước thế nào, người dân sáng tác, hát được ngay, chẳng chút khó khăn. Phản biện xã hội, tham nhũng ư, mất đất ư, người dân hát được ngay. Vấn đề là chúng ta vận động, tạo điều kiện ra sao để cho người dân hát. Ví, Giặm hoàn toàn có thể đứng cạnh các loại hình nhạc hiện đại, thậm chí hát vài bản pop, rock trước, hát Ví, Giặm sau, người dân vẫn hưởng ứng như thường.
Tôi từng đi làm phim, nghiên cứu về Ví, Giặm vào đầu những năm 2000, tôi đụng đâu thấy Ví, Giặm đấy, chẳng phải làm gì, chỉ một thời gian ngắn là xong. Chúng ta có thể bỏ ra vài tỷ để xây sân khấu Ví, Giặm thì chúng ta cũng có thể bỏ ra chừng ấy cho người dân ca hát.
* Vậy, theo ông, biện pháp nào tốt nhất để bảo tồn Ví, Giặm?
- Tốt nhất là tổ chức để đưa Ví, Giặm vào trong tất cả các sinh hoạt cộng đồng.
Biện pháp thứ hai, là tại điều kiện cho nghệ nhân truyền dạy. Chúng ta nuôi các nghệ nhân truyền dạy bằng cách trả thù lao chứ không phải trả lương. Trả thù lao là hỗ trợ nghệ nhân truyền dạy cho cộng đồng, chứ không phải là bao tất lương để anh hưởng thụ rồi không làm gì cả. Hỗ trợ đến mức tối đa để nghệ nhân có sự truyền dạy tối đa. Trong quá trình điền dã, tôi thấy rằng nghệ nhân nào cũng khao khát được truyền dạy, vấn đề là các cơ quan chức năng phải tạo điều kiện cho họ.
- Xin cám ơn GS về cuộc trò chuyện!