Ông Nguyễn Bình Định cho biết, theo đúng lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì hồ sơ Then phải xong và nộp cho UNESCO trước ngày 31-3-2016. Theo kế hoạch là tháng 12 phải xong bản nháp, sau đó mới trình lên Hội đồng cấp cơ sở, cấp Nhà nước, trình Thủ tướng, rồi mới giao cho Bộ trưởng ký.
Liên hoan hát then – đàn tính và ngày 24-9 tới tại Tuyên Quang cũng là một bước đệm quan trọng để quảng bá, giới thiệu Then và bổ sung thêm vào hồ sơ trình UNESCO. Tại Liên hoan, một lễ cầu khoăn (mừng thọ, cầu sống lâu cho người cao tuổi) cũng sẽ được tái hiện tại thôn Trung Quang, xã Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa. Khách mời không chỉ có đại biểu trong nước mà còn cả các nhà nghiên cứu quốc tế, cho nên BTC cũng phải bố trí cả người dịch để giới thiệu với các đại biểu quốc tế.
PGS, TS Nguyễn Bình Định cho biết, với kinh nghiệm trước đây từng làm hồ sơ cho ca trù, đờn ca tài tử, và cả hát bài chòi…, hiện Viện Âm nhạc với vai trò là cơ quan nghiên cứu đang bắt tay vào xây dựng hồ sơ cho Then với những thuận lợi nhất định, như các thầy Then ở địa phương vẫn còn nhiều, các nghi lễ tín ngưỡng vẫn còn được thực hiện, và một phần không kém quan trọng, là hiện vật, sách Then bằng tiếng Tày – Hán vẫn còn được gìn giữ nhiều trong những gia đình có truyền thống làm thầy Then. Một số thầy Then nghiên cứu về Then cũng khá lâu. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, nghi lễ Then không được thực hiện vì lý do mê tín cho nên rơi vào tình trạng trầm lắng, phải phục dựng lại.
PGS. TS Nguyễn Bình Định.
Tuy nhiên, việc làm hồ sơ cho Then cũng gặp phải không ít khó khăn. Then tồn tại và phát triển ở địa bàn các tỉnh vùng núi phía bắc, cho nên việc đi lại của các chuyên gia cũng không dễ dàng. Thứ hai, nếu như các loại hình đờn ca tài tử, ca trù, quan họ… lời hát bằng tiếng Việt thì Then hoàn toàn là tiếng dân tộc, phải dịch sang tiếng Việt mất khá nhiều thời gian và công sức. Chẳng hạn một lễ cấp sắc kéo dài hai ngày hai đêm, với từng ấy thời gian cho các bài Then thì việc dịch sẽ vất vả như thế nào. Ông Nguyễn Bình Định chia sẻ: “Chúng tôi từng làm một lễ cấp sắc ở Bắc Cạn, phải dịch lời mất hai tháng mới xong”.
Dịch lời các bài Then cũng hoàn toàn không đơn giản. PGS, TS Nguyễn Bình Định nói: “Người biết tiếng Tày cũng chưa chắc dịch được, vì ở đây là tiếng cổ, cộng với phải hiểu biết, có kiến thức về tín ngưỡng, tâm linh, dân tộc thì mới dịch được. Vì thế, khi làm hồ sơ, chúng tôi đã yêu cầu mỗi tỉnh phải cung cấp một chuyên gia hiểu biết về Then dịch lời rồi mới chọn lọc đưa vào hồ sơ”.
Ông Nguyễn Bình Định cho biết, hiện nay Tuyên Quang là tỉnh đầu mối trong việc làm hồ sơ Then, các tỉnh khác cũng góp phần. Nhưng vai trò của cơ quan khoa học chỉ là chấp bút, còn UNESCO yêu cầu phía tham gia phải là người dân, cộng đồng. Vì thế, trong tháng 10 tới, Viện sẽ thực hiện quay hình tư liệu Then ở các tỉnh, mỗi tỉnh sẽ lựa chọn các tiết mục, nghi lễ và không gian, chủ yếu là Then cổ, rồi ghi hình. Hiện tại đang chọn các nghệ nhân Then.
Về mặt bảo tồn, PGS, TS Nguyễn Bình Định cho biết, mặc dù Then khá phổ biến ở vùng núi phía bắc và vẫn còn tồn tại nhiều trong đời sống người dân các dân tộc Tày, Nùng, Thái, nhưng việc bảo tồn không hề dễ dàng, bởi Then mang tính tâm linh, nghi lễ nhiều hơn là trình diễn. Ông nói: “Như đờn ca tài tử, cũng có sức sống hiện tại tương tự như Then, ai cũng có thể hát được, vào karaoke cũng hát được, nhưng Then thì không thể, vì Then gắn với việc làm lễ của thầy Then”.
Ông Nguyễn Bình Định phân tích: “Then phải do thầy Then thực hiện, còn những bài Then mang tính biểu diễn là điệu Then đã được lời mới vào. Sắp tới bảo tồn Then như thế nào cũng là vấn đề, vì không thể đưa các bài lễ Then vào trong trường học dạy được. Một số làn điệu đưa ra cho quần chúng hát với đàn tính thì được, nhưng bảo tồn lễ then truyền thống thì như thế nào, cũng phải suy nghĩ tìm hướng. Các thầy Then giống như các thầy đồng của người Việt, phát triển lên như thế nào bởi không cẩn thận lại thành mê tín dị đoan. Phải chắt lọc cái gì đưa vào bảo tồn, cái gì đưa vào giảng dạy, đưa ra sân khấu và phát triển. Phải khéo trong chuyện sàng lọc”.
Về mặt nghệ thuật, Then hoàn toàn xứng đáng được đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO – PGS, TS Nguyễn Bình Định khẳng định. Từ trước đến nay, chưa có loại hình nghệ thuật nào của bà con các dân tộc vùng núi phía bắc nào được phong danh hiệu di sản của UNESCO. Việc làm hồ sơ xin xét duyệt Then cũng là một cách khẳng định vai trò của họ trong di sản văn hóa dân tộc – ông Nguyễn Bình Định khẳng định.